Gi� trị nghệ thuật của gốm Việt Nam P.1
L�m cho bản th�n của gốm rung cảm n�i l�n tiếng n�i của nghệ sĩ của cuộc sống x� hội. Điều đơn giản n�y kh�ng phải dễ ph�t hiện ngay. Ch�u �u vốn tự h�o với nền c�ng nghiệp gốm ph�t triển khi đồ sứ Trung Quốc v� Nhật Bản tr�n sang mới thấy "cần phải học tập kh�ng chỉ về kỹ thuật m� cả về kh�i niệm đ�ng đối với h�nh d�ng v� lối trang tr� t�y thuộc chất liệu n�y" Ở Nhật Bản K. Phu-ki-ni nh� nghi�n cứu gốm l�u năm c� một nhận x�t đ�ng lưu �: "Từ buổi b�nh minh của mu�n vật đời sống con người kh�ng bao giờ tồn tại m� kh�ng tự biểu hiện trong một loạt n�o đ� của t�c phẩm đồ gốm"
Gốm Việt Nam nổi bật những đặc t�nh truyền thống đ�. Gốm Việt Nam kh�ng ph�n biệt giữa gốm "l� quan" v� gốm "l� d�n" như ở một số nước thời phong kiến mặc d� c� một số gốm l�m ra phần n�o phục vụ cho vua ch�a.
Cho n�n muốn đ�nh gi� nghệ thuật gốm Việt Nam điều quan trọng l� cần đứng chỗ đứng của nghệ thuật d�n gian cần nh�n r� mối quan hệ giữa gốm v� cuộc sống của đ�ng đảo quần ch�ng đương thời. Kh�ng v� thấy thiếu h�o nho�ng thiếu lộng lẫy m� kh�ng thấy c�i cốt l�i rất qu� của gốm Việt Nam thường mang t�nh trong s�ng nhuần nhuyễn b�nh dị c� khi c�n th� sơ như tiếng n�i giọng h� quen thuộc trong nh�n d�n.
Dưới đ�y xin lược qua đặc điểm của một số loại gốm ch�nh Việt Nam bao gồm:
I. Buổi sơ khai của nghệ thuật gốm đất nung
Nhiều cuộc khai quật trong v�ng hai mươi năm trở lại đ�y cho thấy bộ mặt gốm đất nung c�ch đ�y 5.000 năm đến đầu c�ng nguy�n thật l� phong ph�. C� thể n�u l�n một số điển h�nh:
Gốm Ph�ng Nguy�n (v� gốm nhiều di chỉ c�ng loại) c�ch đ�y 5.000 đến 4.000 năm tổ ti�n ta đ� biết sử dụng b�n xoay th�nh thục đ� biết trang tr� l�n gốm bằng những n�t khắc tinh xảo chủ yếu l� hoa văn răng lược khắc vạch l�n s�ng một số thi�n về lối h�nh học (như gốm G� B�ng). Đ� biết d�ng m�u đất trắng v� m�u đ� son t� thắm l�n bề mặt h�nh khắc của gốm trước khi nung; đ� biết nung độ lửa gi� nhất của đất nung (như gốm Việt Tiến).
Gốm Đồng Đậu (v� gốm nhiều di chỉ c�ng loại) c�ch đ�y khoảng 3.500 năm hoa văn c�ng đa dạng: xoắn ốc răng cưa đường chấm song song h�nh tr�m in v.v... Đặc biệt c�n t�m thấy tượng b� t�t tượng chim đầu g�...
Gốm G� Mun (v� gốm nhiều di chỉ c�ng loại) c�ch đ�y tr�n 3.000 năm hoa văn h�nh học chiếm ưu thế. Nhiều hoa văn r� r�ng bắt chước hoa văn tr�n đồ đồng (kể cả một số hoa văn thuộc gốm Đồng Đậu).
Gốm Ph�ng Nguy�n Đồng Đậu G� Mun kh�ng chỉ sớm phong ph� về hoa văn m� cũng phong ph� về h�nh d�ng. Nhiều h�nh d�ng cho đến sau n�y vẫn c�n được bảo tồn trong c�c l� gốm d�n gian như loại v� c� miệng loe đứng cổ cao bụng nở (Đồng Đậu); loại v� cũng như nồi cỏ miệng loe rộng cổ ngắn bụng nở (Đồng Đậu); loại v� nồi c� miệng loe xi�n cổ thắt (Đồng Xấu); b�t b�nh cốc ống nhổ ch�n thấp ch�n cao (Ph�ng Nguy�n) v.v... Ơở miền Nam gốm v�ng ch�u thổ s�ng Cửu Long qu�ng những thế kỷ đầu c�ng nguy�n gốm Sa Huỳnh qu�ng thế kỷ thứ 5 cũng c� nhiều hoa văn l�n s�ng h�nh học nhiều h�nh d�ng rất gần gũi với gốm cổ v�ng đồng bằng v� trung du Bắc Bộ. C� h�nh d�ng điển h�nh của gốm miền Nam như c�i lu c�i chĩnh vẫn bảo tồn cho đến nay ở nhiều cơ sở sản xuất gốm trong Nam. Ri�ng h�nh c�i chĩnh kh� giống h�nh một số gốm Đ�ng Sơn được ph�t hiện kh� nhiều.
Người ta từng đặt c�u hỏi: trong thời đại đồng thau ph�t triển rực rỡ gốm đất nung sao vẫn c�n trang tr� ng�y một c�ng phu v� c� xu hướng bắt chước đồ uống nhất l� về mặt hoa văn?
Điều c� thể khẳng định được l�:
Nghệ thuật d�n gian tồn tại v� ph�t triển từ trong cuộc sống của quần ch�ng thường được thể hiện rộng r�i nhất từ những chất liệu th�ng thường nhất từ những đồ d�ng th�ng thường nhất (như đồ m�y tre tiếp đến l� đồ đất nung).
Nghệ thuật đất nung bắt chước nghệ thuật đồ đồng kh�ng hề giảm m� c�n l�m s�ng tỏ th�m phong c�ch nghệ thuật đồ đồng c�ng thời. Gốm bắt chước đồng c�ng l�m c�ng s�ng tỏ th�m qu� tr�nh ph�n h�a giai cấp của x� hội đương thời.
Mối tương quan kh� r� n�t giữa c�c nền nghệ thuật cổ xưa tr�n c�ng một dải đất Việt Nam n�i ri�ng tr�n khu vực Đ�ng Nam A� n�i chung được phản �nh qua phong c�ch nghệ thuật đồ đồng cũng như phong c�ch nghệ thuật đồ đất nung c�ng thời.
2. Gốm hoa n�u v� tiền th�n của n�
Từ đầu c�ng nguy�n đến thế kỷ thứ 10 c�c nh� nghi�n cứu trước đ�y mới chỉ nhắc đến gốm "H�n bản địa" tức l� những loại gốm đất nung hoặc s�nh xốp c� men hoặc kh�ng men t�m thấy trong c�c ng�i mộ người H�n ch�n cất tr�n đất Việt Nam phần lớn l�m theo dạng gốm minh kh� của Trung Quốc đương thời. Nhưng b�n cạnh loại gốm n�y c�n v� số loại đất nung s�nh n�u s�nh trắng vẫn được tự sản tự ti�u trong c�c cộng đồng l�ng x�. Những loại gốm n�y vẫn tiếp tục những truyền thống của gốm cổ xưa nhất l� về mặt h�nh d�ng. Di chỉ Cụ Tr� (Thanh Miện - Hải Hưng) l� một khu vừa mộ t�ng vừa cư d�n thuộc thời kỳ đ� đ� t�m thấy chiếc v� hũ men da lươn mỏng d�nh d�ng giống d�ng gốm Đồng Đậu v� cũng c�n rất quen thuộc cho đến ng�y nay. Men da lươn căn bản l�m bằng chất tro pha với đ� son đ� thối v� một số �t đất v�i kh�c m� cha �ng ta đ� biết tận dụng nguy�n liệu địa phương hầu như c� sẵn khắp nơi.
Gốm hoa n�u thường thuộc loại s�nh xốp men ng� b�ng hoa văn m�u n�u. Hoa được khắc vạch tr�n xương đất ướt trước khi t� m�u. Cũng c� loại nền n�u hoa văn trắng. Dần về sau gốm hoa n�u được thể hiện theo nhiều kỹ thuật kh�c nhau nhưng căn bản vẫn bấy nhi�u chất liệu: men tro đ� son đ� thối hoặc rỉ sắt ho�n to�n giống nguy�n liệu của gốm men da lươn.
Đặc điểm phong c�ch của gốm hoa n�u l� h�nh d�ng đầy đặn chắc khỏe ph� hợp với lối khắc lối t� mảng to mảng nhỏ s�u n�ng t�y tiện v� tr�n nền rất tho�ng. Đề t�i trang tr� rất gắn b� với thi�n nhi�n v� cuộc sống của Việt Nam: t�m c� voi hổ chim kh�ch hoa sen hoa s�ng l� khoai nước l� r�m bụt v� sĩ đấu gi�o cưỡi voi v.v... Một số gốm hoa n�u về sau bắt chước phong c�ch thể hiện của gốm hoa lam. Từ đ� mất dần vẻ đẹp độc đ�o của gốm hoa n�u.
Nghi�n cứu qu� tr�nh ph�t triển gốm hoa n�u c� thể cho ta một số khẳng định:
Gốm hoa n�u vốn c� từ trước thế kỷ 11 ra đời c�ng với gốm men da lươn. Việc sử dụng đ� son t� l�n gốm vốn c� từ thời nguy�n thủy (gốm Ph�ng Nguy�n). Cho đến ng�y nay ở nhiều l� d�n gian vẫn c� những nghệ nh�n d�ng chất liệu v� kỹ thuật n�y để l�m những t�c phẩm ri�ng biệt.
Giai đoạn ti�u biểu nhất của gốm hoa n�u về mặt nghệ thuật cũng như kỹ thuật l� từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 13. N� mang r� n�t của loại gốm hoa n�u rất Việt Nam kh�ng một loại gốm nước ngo�i n�o lẫn lộn được. Chỉ một m�u n�u m� tạo ra nhiều sắc th�i kh�ng đơn điệu.
Ơở đ�y cần nhắc đến luận điểm của một số nh� nghi�n cứu Ph�p trước đ�y cố t�nh cho rằng gốm hoa n�u Việt Nam bắt chước gốm Từ Ch�u của Trung Quốc.
Thật ra l� h�nh d�n gian Từ Ch�u của Trung Quốc m� ti�u biểu l� gốm hoa đen x�t về kỹ thuật phong c�ch thể hiện ho�n to�n kh�ng giống gốm hoa n�u Việt Nam: m�u đen lấy từ chất gỉ sắt c� h�m lượng măng gan nhiều; c�ch vẽ lưu lo�t của b�t nho kh�ng li�n quan g� đến lối khắc v� t� son của gốm hoa n�u Việt Nam. Hơn nữa đồ �n trang tr� lối c�ch điệu ho�n to�n kh�c. Cũng như ở Th�i Lan vẫn c� gốm hoa n�u với nền m�u men da lươn cổ xưa gọi l� gốm Su-c�-tai. N� vẫn c� m�u sắc s�ng tạo ri�ng của n�.
3. Gốm men ngọc
Gốm men ngọc cũng đ� ph�t triển từ trước thế kỷ 11. Một số lọ men ngọc tảo kỳ c� thể v�o thế kỷ thứ 8 thứ 9 d�ng rất chắc khỏe men phủ kh� dầy. Kh� nhiều hiện vật c�ng kiểu men c�n sống chứng tỏ kỹ thuật men ngọc ban đầu chưa th�nh thục. Xương đất v� men chứa nhiều h�m lượng sắt kh�ng những tạo điều kiện l�m ra men da lươn m� c�n tạo điều kiện l�m ra men ngọc. Trong nghề gốm từ những kết quả ngẫu nhi�n dẫn đến những kết quả dụng � l� sự việc thường l�m. Quy luật t�m ra men ngọc ở Trung Quốc ở Việt Nam ở Triều Ti�n... từ thời xưa chắc cũng như vậy với điều kiện nguy�n liệu v� phương ph�p nung tạo kiểu ch�u A� gần như nhau.
Gốm men ngọc Việt Nam với hoa văn khắc ch�m hoặc in nổi chủ yếu trong l�ng b�t l�ng đĩa dưới mầu men ngọc trong suốt cho ta một vẻ đẹp dịu d�ng s�u đậm. Cũng c� c�i do việc nung lửa kh�ng đều m� từ mầu ngọc xanh ngả sang mầu v�ng �a v�ng n�u. Đề t�i trang tr� thường l� hoa l� chim phượng một số �t c� h�nh người lẫn trong hoa l�. Hoa văn men ngọc c� ảnh hưởng nhiều của hoa văn chạm khắc l�n đ� đương thời.
Một số học giả phương t�y trước đ�y cho rằng gốm men ngọc Việt Nam m� họ mệnh danh l� đồ Tống Thanh H�a (v� t�m thấy nhiều tại Thanh H�a) do c�c "di thần" nh� Tống biết nghề gốm l�m ra. Họ l� những người chạy loạn sang Việt Nam dưới thời Trung Quốc bị qu�n Nguy�n x�m chiếm (1279 - 1368). Một số học giả Việt Nam trước đ�y cũng vội v� tr�ch dẫn theo. Đ� l� điều lầm lẫn đ�ng tiếc v� ho�n to�n thiếu khoa học.
Thật ra gốm men ngọc Trung Quốc thời Bắc Tống hay Nam Tống xương đất rất đanh v� nặng hầu như đ� th�nh sứ. Chất liệu men cũng nặng về th�nh phần đ� hơn l� gio n�n xương đất v� men quyện v�o nhau. Mầu men ngọc được chủ động do điều khiển lửa ho�n nguy�n kh� cao v� ch�nh x�c. Nhưng một số �t men ngọc thuộc c�c l� d�u v�ng Hoa Nam đặc biệt l� v�ng Quảng Đ�ng th� xương rất nhẹ phủ men gio n�n bộ mặt c� những n�t dễ giống với gốm men ngọc Việt Nam. Trường hợp n�y vẫn c� th�m nhiều yếu tố đối chứng kh�c để ph�n biệt.
Gốm men ngọc cũng rất thịnh h�nh ở những thế kỷ 11 đến thế kỷ 13 nửa đầu thế kỷ 14. Khi c� gốm hoa lam v� gốm nhiều mầu th� gốm men ngọc cũng như gốm hoa n�u phải nhường bước cho loại gốm mới. Đ� l� điều tất yếu. Mấy học giả phương T�y cho rằng khi qu�n Minh chiếm lại đất Trung Quốc c�c di thần nh� Tống trở về nước đem theo cả b� quyết l�m gốm men ngọc n�n "đồ Tống Thanh H�a" bị mai một. Đ� l� lối suy diễn nếu kh�ng c� dụng � th� cũng kh�ng dựa tr�n một cứ liệu khoa học n�o cả.
(C�n tiếp)
Nguồn tin: Battrang.info
|